Khung giá đất áp dụng cho 5 năm tới có mức tăng khoảng 20%, trong đó quy định giá đất ở tại Hà Nội, TP.HCM tối đa 162 triệu đồng/m2. Chính phủ ban hành Nghị định 96/2019/NĐ-CP về khung giá đất đối với từng loại đất, theo từng vùng được quy định tại Điều 113 Luật Đất đai.

Hà Nội: Giá đất giai đoạn 2020 – 2024 tăng bình quân khoảng 15%
Theo khung giá đất mới này, vùng đồng bằng sông Hồng gồm các tỉnh, thành phố: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình. Giá đất khu vực này được quy định với các loại đất đô thị từ loại I đến loại V có mức tối đa là 162 triệu đồng/m2, tối thiểu là 120.000 đồng/m2.
Vùng Đông Nam Bộ gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh và TP.HCM. Ở đây, mỗi mét vuông đất đô thị từ loại I đến loại V có mức giá tối đa là 162 triệu đồng, tối thiểu là 120.000 đồng.
Vùng trung du và miền núi phía Bắc gồm các tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang và Quảng Ninh.
Tại đây, khung giá đất mới quy định giá đất ở từ đô thị loại I đến loại V tối thiểu là 50.000 đồng/m2, tối đa là 65 triệu đồng/m2.
Vùng Bắc Trung bộ gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế có khung giá tối thiểu là 40.000 đồng/m2, tối đa là 65 triệu đồng/m2.
Vùng Tây Nguyên gồm các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Nông, Đắk Lắk và Lâm Đồng có khung giá đất tối thiểu 50.000 đồng/m2, tối đa là 48 triệu đồng/m2.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau có khung giá đất đô thị từ loại I đến loại V, có giá tối thiểu 50.000 đồng/m2, tối đa 65 triệu đồng/m2.
Nghị định cũng nêu rõ, khung giá đất được sử dụng làm căn cứ để UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, điều chỉnh bằng giá đất tại địa phương.
Đồng thời, UBND cấp tỉnh căn cứ vào thực tế tại địa phương được quy định mức giá đất tối đa trong bảng giá đất, bảng giá đất điều chỉnh cao hơn không quá 20% so với mức giá tối đa của cùng loại đất trong khung giá đất.
Những ai sẽ bị ảnh hưởng?
Đề cập những tác động từ điều chỉnh giá đất, UBND TP Hà Nội cho rằng việc điều chỉnh tăng giá đất ở sẽ tăng thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; tăng số thu từ tiền sử dụng đất đối với việc chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân; tăng nguồn thu từ thuế thu nhập từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất và lệ phí trước bạ về đất.
UBND TP Hà Nội cho rằng việc điều chỉnh bảng giá đất có thể tác động gián tiếp đến thị trường bất động sản, đến công tác giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án trên địa bàn TP do yếu tố tâm lý như các chủ đầu tư “tranh thủ” tăng giá bán bất động sản tại dự án với lý giải do các khoản thuế, phí tăng. Các hộ nằm trong phạm vi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng trông chờ giá bồi thường tăng.
TP.HCM chuẩn bị nhiều phương án giá đất

HĐND TP.HCM đã thông qua tờ trình của UBND về giá đất đô thị. Mức giá này không thay đổi so với giai đoạn 2014 – 2019.
Tại TP.HCM, các cơ quan chức năng cho biết vẫn đang xây dựng dự thảo nhiều phương án giá đất cho kỳ 5 năm 2020-2024 để “đón đầu” khung giá đất mà Chính phủ sắp ban hành. Trong đó, có phương án tăng theo giá thị trường, có phương án dự phòng tăng trên nền bảng giá đất hiện tại.
Theo quy định, bảng giá đất do các địa phương ban hành phải phù hợp với khung giá đất của Chính phủ. Giá đất theo bảng giá tại TP.HCM hiện hành xây dựng từ năm 2015 đã cao kịch trần so với khung giá đất hiện hành.
Và trong 5 năm qua, giá đất thị trường đã tăng nhiều nhưng khung giá đất không thay đổi nên TP không thể dựa vào khung giá này để xây dựng bảng giá đất mới cho chu kỳ 5 năm tới.
Vì vậy, UBND TP phải chờ Chính phủ ban hành khung giá đất mới làm cơ sở xây dựng bảng giá đất cho chu kỳ 5 năm tới.
Theo các chuyên gia, bảng giá đất của TP.HCM hiện chỉ bằng khoảng 20% so với giá thị trường, tỉ lệ thấp hơn nhiều so với bảng giá đất của các tỉnh lân cận (bằng khoảng 80% giá thị trường).
Vừa qua, nhiều chuyên gia kiến nghị TP.HCM nên xây dựng bảng giá đất bằng khoảng 80% giá thị trường, góp phần minh bạch thị trường bất động sản, tránh thất thoát nguồn thu ngân sách.
Quy định mới về xây dựng tầng tum, tầng lửng từ năm 2020
Từ ngày 1/1/2020, Thông tư 07/2019/TT-BXD về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế một số quy định tại Thông tư số 03/2016/TT-BXD của Bộ trưởng Bộ Xây dựng quy định về phân cấp công trình xây dựng và hướng dẫn áp dụng trong quản lý hoạt động đầu tư xây dựng sẽ chính thức có hiệu lực.
Theo đó, Thông tư 07 bổ sung, giải thích các khái niệm về nhà ở riêng lẻ; nhà chung cư; công trình đa năng; chiều cao của nhà, công trình, kết cấu; tầng trên mặt đất; tầng hầm; tầng nửa/bán hầm; tầng kỹ thuật; tầng áp mái; số tầng của tòa nhà (hoặc công trình).
Đặc biệt, đối với công trình có tầng tum không tính vào số tầng của công trình khi chỉ dùng để bao che lồng cầu thang bộ hoặc giếng thang máy, bao che các thiết bị công trình (nếu có), phục vụ mục đích lên mái và cứu nạn, có diện tích không vượt quá 30% diện tích của sàn mái.
Đối với nhà ở riêng lẻ, tầng lửng không tính vào số tầng của công trình khi diện tích sàn tầng lửng không vượt quá 65% diện tích sàn xây dựng của tầng ngay bên dưới.
Với các công trình nhà, kết cấu dạng nhà, công trình nhiều tầng có sàn (không bao gồm nhà ở riêng lẻ) thì tầng lửng không tính vào số tầng của công trình khi chỉ bố trí sử dụng làm khu kỹ thuật (ví dụ: sàn kỹ thuật đáy bể bơi, sàn đặt máy phát điện, hoặc các thiết bị công trình khác), có diện tích sàn xây dựng không vượt quá 10% diện tích sàn xây dựng của tầng ngay bên dưới và không vượt quá 300 m2. Mỗi công trình chỉ được phép có một tầng lửng không tính vào số tầng của công trình.
Nguồn: Baomoi+Cafeland